TUYÊN TRUYỀN PHÒNG CHỐNG BỆNH QUAI BỊ
Kính thưa các thầy cô giáo cùng toàn thể các em học sinh thân mến!
Bây giờ là thời điểm giao mùa nên rất dễ phát sinh một số bệnh theo mùa, cụ thể ở trường ta - hiện nay đã có một số học sinh mắc bệnh quai bị, cụ thể có những lớp có 7-8 học sinh mắc phải dịch bệnh này. Trong buổi chào cờ đầu tuần hôm nay, cô sẽ trao đổi với các thầy cô giáo cùng các em những kiến thức cơ bản về bệnh quai bị như: thế nào là bệnh quai bị, nguyên nhân và những dấu hiệu, triệu chứng, biến chứng của bệnh quai bị, đặc biệt cô sẽ hướng dẫn cho CB - GV - NV và các em học sinh cách điều trị và phòng chống bệnh quai bị.
1.Thế nào là bệnh quai bị
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân, hè, tuy nhiên bệnh có thể xảy ra quanh năm kể cả vào mùa thu, đông. Bệnh thường phát triển thành dịch ở những nơi tập trung đông người, chỗ tập thể đông đúc như nhà trẻ, trường học.
Đây là một bệnh nhẹ nhưng nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đặc biệt nguy hiểm nhất là viêm sưng tinh hoàn( xảy ra từ 20 - 30% ở nam giới trưởng thành, có thể gây ra chứng bệnh vô sinh)
2- Đường lây
Bệnh lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn, uống, qua tuyến nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi.
3- Nguyên nhân dẫn đến bệnh quai bị
Quai bị do một loại siêu vi thuộc họ Paramixoviridae gây ra, rất dễ lây qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua tuyến nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ, cả trẻ lớn chưa được tiêm phòng quai bị và lứa tuổi vị thành niên chưa có miễn dịch quai bị, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ thấp hơn. Thời gian lây là từ 6 ngày trước khi toàn phát và đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.
4- Dấu hiệu, triệu chứng bệnh quai bị.
- Khi bị nhiễm virus quai bị, phần lớn bệnh nhân thấy khó chịu từ 1 - 2 ngày trước khi các triệu chứng xuất hiện.
- Bệnh nhân bị sốt cao (39 - 400C) trong 3 - 4 ngày, chảy nước bọt, sưng vùng mang tai, dấu hiệu dễ nhận biết nhất là má sưng to, có thể sưng một bên mặt rồi lan sang bên kia hoặc sưng hai bên cùng một lúc. Tuy nhiên, có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có triệu chứng bệnh lý, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không biết.
- Bệnh thường tự khỏi sau 1 tuần đến 10 ngày. Sau đó, bệnh nhân được miễn dịch suốt đời.
5. Điều trị
- Đây là bệnh do virus gây ra nên chưa có thuốc điều trị đặc hiệu mà chỉ điều trị triệu chứng.
- Hạ sốt giảm đau cho bệnh nhân bằng Paracetamol
- Có thể giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng.
-Trường hợp viêm tinh hoàn, chú ý mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau; nghỉ ngơi là chủ yếu, hạn chế vận động.
- Trường hợp bệnh nhân đã giảm sốt mà sốt trở lại hoặc đau vùng bụng dưới cần đưa đến cơ sở y tế để khám và điều trị tránh biến chứng nặng hơn.
- Điều trị kháng sinh khi có biến chứng sưng hoặc bội nhiễm.
- Khi bị mắc bệnh, người bệnh cần vệ sinh răng miệng thường xuyên; cần được cách ly trong khoảng 2 tuần kể từ khi có triệu chứng sưng ở mang tai.
- Không nên tự ý sử dụng các loại thuốc uống, thuốc bôi, đắp lên vùng bị sưng để tránh bị nhiễm độc.
6- Biến chứng của bệnh quai bị
- Bệnh quai bị ở người lớn thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể có các biến chứng như: viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn ở nam giới, viêm buồng trứng ở nữ giới, viêm tụy, tổn thương thần kinh, đặc biệt bệnh quai bị ở phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
7- Cách phòng bệnh.
- Học sinh bị bệnh không được đến trường, vì như vậy sẽ là nguồn lây bệnh cho các bạn xung quanh.
- Các đồ vật có liên quan đến chất tiết mũi, họng cần phải được diệt khuẩn tốt.
- Phòng lây nhiễm bệnh bằng cách: đeo khẩu trang, che miệng khi hắt hơi, hạn chế tiếp xúc, tụ tập nơi đông người,...
- Các trường hợp mắc bệnh phải được nghỉ ngơi tại chỗ, tránh vận động mạnh.
- Cách ly người bệnh khoảng 2 tuần từ khi phát hiện bệnh.
- Kiêng nước lạnh, kiêng gió.
- Nghỉ ngơi, hạn chế vận động (đặc biệt là khi phát hiện tinh hoàn có hiện tượng sưng đau).
- Vệ sinh răng miệng, uống nhiều nước và súc miệng bằng nước muối sinh lý hay nước súc miệng chuyên dụng. Như thế sẽ giảm tình trạng khô miệng và tránh để vi khuẩn có môi trường thuận lợi phát triển.
- Ăn thức ăn mềm, dễ nuốt, dễ tiêu hóa nhưng vẫn phải đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng. Không ăn đồ nếp, cá mè, cá chép.
- Ăn đa dạng các loại rau xanh và quả tươi giúp bổ sung các loại vitamin, khoáng chất cần thiết cho cơ thể, tăng khả năng miễn dịch.
- Trong trường hợp sốt cao liên tục, không hạ sốt được hoặc thấy xuất hiện biến chứng cần sớm đưa đến bệnh viện.
- Vệ sinh sạch sẽ thân thể, rửa tay bằng xà phòng, giữ vệ sinh tốt môi trường xung quanh.
- Để phòng bệnh, ngoài các biện pháp cách ly với người bệnh thì phương pháp tiêm phòng là tốt nhất. Hơn 95% những người được tiêm chủng được miễn dịch rất lâu, có thể suốt đời. Vaccine có thể tiêm bất kỳ lúc nào từ 12 tháng tuổi trở lên. Trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc quai bị và chưa được tiêm chủng theo lịch phòng bệnh quai bị thì nên tiêm chủng để có thể phòng bệnh tốt nhất cho bản thân và gia đình mình.
Qua buổi trao đổi hôm nay, cô hi vọng các thầy cô giáo và các em học sinh phần nào có thêm những kiến thức về bệnh quai bị cũng như cách để phòng chống bệnh quai bị cho bản thân cũng như cho gia đình và cộng đồng.